Môi trường Sarawak

Địa lý

Sarawak nằm tại miền tây bắc đảo Borneo trên ảnh vệ tinh NASA.

Tổng diện tích của Sarawak là gần 124.450 kilômét vuông (48.050 sq mi), và nằm giữa 0° 50′ và 5° vĩ Bắc, 109° 36′ và 115° 40′ kinh Đông. Sarawak chiếm 37,5% tổng diện tích của Malaysia.[69] Bang này có vùng rừng mưa nhiệt đới lớn với các loài động thực vật phong phú.[15]

Bang Sarawak có 750 kilômét (470 mi) đường bờ biển, bị gián đoạn ở phía bắc do khoảng 150 kilômét (93 mi) bờ biển Brunei. Sarawak tách biệt với phần đảo Borneo thuộc Indonesia qua các dãy đồi núi cao, chúng là bộ phận của dãy núi trung tâm của Borneo. Chúng cao hơn về phía bắc, và đạt đỉnh gần nguồn của sông Baram tại dốc Núi Batu Lawi và Núi Mulu. Núi Murud là điểm cao nhất tại Sarawak.[15] Vườn quốc gia Lambir Hills được biết đến vì các thác nước tại đó.[70] Phòng ngầm lớn nhất thế giới là Phòng Sarawak nằm trong Vườn quốc gia Gunung Mulu. Các điểm thu hút khác trong vườn gồm Hang Deer (hành lang hang lớn thứ nhì thế giới)[71]Hang Clearwater (hệ thống hang dài nhất tại Đông Nam Á).[72][73] Vườn quốc gia Gunung Mulu là một di sản thế giới của UNESCO.[74]

Sarawak thường được phân thành ba vùng sinh thái. Khu vực duyên hải khá thấp và bằng phẳng, có các vùng đầm lầy và môi trường ẩm ướt khác với diện tích lớn. Sarawak có các bãi biển như Pasir Panjang[75] và Damai tại Kuching,[76] Tanjung Batu tại Bintulu,[77] và Tanjung Lobang[78] cùng Hawaii tại Miri.[79] Khu vực đồi là nơi có nhiều người ở nhất và hầu hết thành thị cũng nằm tại đây. Các cảng Kuching và Sibu được xây dựng trên sông không xa bờ biển. Bintulu và Miri gần với đường bờ biển nơi các ngọn đồi chạy thẳng ra Biển Đông. Khu vực thứ ba là vùng núi dọc theo biên giới với Indonesia, có các cao địa Kelabit (Bario), Murut (Ba'kelalan) và Kenyah (Usun Apau Plieran) tại phía bắc.[15]

Sông Rajang là sông dài nhất tại Malaysia

Các sông lớn tại Sarawak là sông Sarawak, sông Lupar, sông Saribas, và sông Rajang. Sông Sarawak là sông chủ yếu chảy qua Kuching. Sông Rajang là sông dài nhất Malaysia với 563 kilômét (350 mi) bao gồm phụ lưu là sông Balleh. Về phía bắc, sông Baram, sông Limbang, và sông Trusan đổ vào Vịnh Brunei.[15]

Sarawak có địa lý nhiệt đới cùng khí hậu xích đạo, có hai mùa gió mùa: gió mùa đông bắc và gió mùa tây nam. Gió mùa đông bắc xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 2, gây ra mưa nhiều; gió mùa tây nam đem lại ít mưa hơn. Khí hậu ổn định quanh năm trừ khi có gió mùa. Nhiệt độ trung bình ngày dao động từ 23 °C (73 °F) vào buổi sáng đến 32 °C (90 °F) vào buổi chiều, trong khi Miri có nhiệt độ trung bình thấp nhất so với các đô thị lớn khác tại Sarawak. Miri còn có số giờ nắng nhiều nhất (trên sáu giờ mỗi ngày), trong khi các khu vực khác có từ năm đến sáu giờ mỗi ngày. Độ ẩm thường xuyên ở mức cao là trên 68%. Lượng mưa bình quân năm dao động từ 330 xentimét (130 in) đến 460 xentimét (180 in), trải dài 220 ngày mỗi năm.[69] Đất đá cát kết-phiến sét và đất đá chiếm 60% diện tích, trong khi đất podzol chiếm 12% diện tích của Sarawak. Đất phù sa xuất hiện tại các khu vực ven biển và ven sông trong khi 12% diện tích đất của Sarawak có rừng đầm lầy than bùn bao phủ.[69]

Sarawak có thể được phân thành hai khu vực địa chất: Mảng Sunda kéo dài về phía tây nam từ sông Batang Lupar (gần Sri Aman) và tạo thành mũi phía nam của Sarawak, và khu vực địa máng kéo dài về phía đông bắc từ sông Batang Lupar, hình thành khu vực miền trung và miền bắc của Sarawak. Đá cổ nhất tại miền nam Sarawak là đá phiến, được hình thành trong các thời Kỷ Than đáKỷ Permi Muộn. Trong khi đá mácma trẻ nhất trong khu vực là andesit, tìm thấy tại Sematan. Thành hệ địa chất của khu vực miền trung và miền bắc bắt đầu vào thời kỳ Kỷ Creta Muộn. Một số loại đá có thể tìm thấy tại miền trung và miền bắc Sarawak là đá phiến sét, cát kết, và đá phiến silic.[69]

Đa dạng sinh học

Rừng ngập mặn và dừa nước bao phủ đường bờ biển của Sarawak, chúng chiếm 2% tổng diện tích đất rừng của bang, phổ biến nhất là tại các khu vực cửa sông của Kuching, Sarikei, và Limbang. Các loài cây chủ yếu tại đó là: đước, dừa nước, và nhum. Các khu rừng đầm lầy than bùn chiếm 16% diện tích đất rừng và tập trung tại miền nam Miri và hạ du thung lũng Baram. Các loài cây chủ yếu trong loại rừng này là: ramin (Gonystylus bancanus), meranti (các loài Shorea), và medang jongkong (Dactylocladus stenostachys). Rừng Kerangas chiếm 5% tổng diện tích rừng, còn rừng dầu chiếm cứ các khu vực núi.[69] Một số loài thực vật được nghiên cứu do dược tính của chúng.[80]

Một lối tản bộ qua Vườn quốc gia Lambir Hills.

Rừng mưa Sarawak có mức độ tập trung loài trên đơn vị diện tích vào hàng đầu trên thế giới. Bang có khoảng 185 loài thú, 530 loài chim, 166 loài rắn, 104 loài thằn lằn, và 113 loài lưỡng cư. Trong số đó, 19% loài thú, 6% loài chim, 20% loài rắn, và 32% loài thằn lằn là loài đặc hữu. Các loài này phần lớn được tìm thấy tại các khu vực được bảo vệ hoàn toàn. Bang có 2.000 loài cây, 1.000 loài lan, 757 loài dương xỉ, và 260 loài cọ.[81] Bang cũng là nơi sinh sống của các loài động vật gặp nguy hiểm, như voi lùn Borneo, khỉ vòi, đười ươitê giác.[82][83][84][85][86] Trung tâm Động vật hoang dã Matang, Khu Dự trữ Tự nhiên Semenggoh, và Khu Bảo tồn Động vật hoàng dã Lanjak Entimau[87] được chú ý vì các chương trình bảo vệ đười ươi của họ.[88][89] Vườn quốc gia Talang – Satang nổi tiếng vì sáng kiến bảo tồn rùa.[90] Ngắm chim là một hoạt động phổ biến tại nhiều vườn quốc gia như Vườn quốc gia Gunung Mulu, Vườn quốc gia Lambir Hills,[91] và Vườn quốc gia Similajau.[92] Vườn quốc gia Miri – Sibuti được biết đến vì các rặng san hô[93] còn Vườn quốc gia Gunung Gading được biết đến vì các loài hoa Rafflesia có kích thước lớn.[94] Vườn quốc gia Bako có 275 loài khỉ vòi,[95] và Vườn nắp ấm Padawan nổi tiếng với các loài cây nắp ấm ăn thịt.[96] Năm 1854, Alfred Russel Wallace từng đến thăm Sarawak. Một năm sau, ông gây dựng "Quy luật Sarawak" tạo nền tảng cho thuyết chọn lọc tự nhiên.[97]

Chính phủ bang Sarawak phê chuẩn một số luật nhằm bảo vệ các khu rừng và các loài hoang dã gặp nguy hiểm, trong đó có Sắc lệnh Rừng 1958,[98] Sắc lệnh Bảo vệ Loài hoang dã 1998,[99] và Sắc lệnh Vườn tự nhiên và Khu dự trữ tự nhiên Sarawak.[100] Một số loài được bảo vệ là đười ươi, đồi mồi dứa, chồn bay Sunda, và chim mỏ sừng sáo. Theo Sắc lệnh Bảo tồn Loài hoang dã 1998, cư dân bản địa Sarawak được phép săn bắt ở quy mô hạn chế các loài động vật hoang dã trong rừng rậm song không được phép chiếm hữu quá 5 kilôgam (11 lb) thịt.[101] Cơ quan Lâm nghiệp Sarawak được thành lập vào năm 1919 nhằm bảo tồn tài nguyên rừng trong bang.[102] Sau những chỉ trích quốc tế về ngành công nghiệp lâm sản tại Sarawak, chính phủ bang quyết định giảm quy mô Cơ quan Lâm nghiệp và thành lập Công ty Lâm nghiệp Sarawak vào năm 1995.[103][104] Trung tâm Đa dạng Sinh học Sarawak được thành lập vào năm 1997 nhằm bảo tồn, bảo vệ và phát triển bền vững đa dạng sinh học trong bang.[105]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sarawak http://asiapacific.anu.edu.au/newmandala/2013/07/2... http://artsonline.monash.edu.au/mai/files/2012/07/... http://www.navy.gov.au/hmas-kapunda http://www.abc.net.au/science/slab/niahcave/histor... http://www.bt.com.bn/golden_legacy/2008/12/28/sult... http://www.bt.com.bn/home_news/2009/03/17/brunei_d... http://www.bt.com.bn/home_news/2009/03/18/limbang_... http://www.bt.com.bn/life/2007/12/16/penan_slowly_... http://archaeology.about.com/od/nterms/qt/niah_cav... http://aliran.com/aliran-monthly/2013/201310/lesso...